Việt Nam đứng thứ 24 thế giới về sản xuất ngô. Theo Trung tâm Tin học thống kê (Bộ NN&PTNT), năm 2016, diện tích ngô của Việt Nam đạt hơn 1,15 triệu ha (chiếm 0,65% diện tích ngô toàn thế giới; 1,94% diện tích ngô châu Á; 11,6% diện tích ngô khu vực Đông Nam Á), và Việt Nam đứng thứ 24/166 nước trồng ngô trên thế giới.
Hiện nay, tổng diện tích đất trồng ngô toàn quốc năm 2015 khoảng trên 1 triệu ha, trong đó vùng Trung du miền núi phía Bắc có diện tích đất trồng ngô lớn nhất (474.000 ha), chiếm 45,81% diện tích đất trồng ngô toàn quốc.
Theo Cục Trồng trọt, hiện nay, tỷ lệ sử dụng giống ngô lai trong sản xuất đạt gần như tuyệt đối (100% diện tích gieo trồng). Tổng số giống ngô lai có mặt trong sản xuất khoảng trên dưới 50 giống do các công ty trong và ngoài nước cung cấp. Hàng năm, tổng lượng hạt giống ngô cung cấp cho sản xuất khoảng trên dưới 20.000 tấn (bao gồm cả giống sản xuất trong nước và giống nhập khẩu).
Tình hình sản xuất ngô năm 2016
Diện tích |
1,15 triệu ha |
Năng suất trung bình |
45,5 tạ/ha |
Sản lượng |
5,244 triệu tấn |
Tuy nhiên, hàng năm Việt Nam vẫn phải chi một lượng lớn ngoại tệ để nhập khẩu ngô hạt về phục vụ nhu cầu chế biến thức ăn chăn nuôi trong nước. Đó chính là mâu thuẫn nội tại của ngành trồng trọt, khi mà gạo thì xuất khẩu, thậm chí xuất khẩu khó khăn, còn ngô thì nhập gần như chiếm già nửa về giá trị (trên 1,65 tỷ USD năm 2016) so với gạo xuất.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ Việt Nam, tính từ đầu năm đến hết tháng 6/2017, Việt Nam đã nhập khẩu 3,6 triệu tấn ngô, trị giá 731,1 triệu USD, tăng 9% về lượng và tưng 12,1% về trị giá so với cùng kỳ 2016. Tính riêng tháng 6/2017, xu hướng nhập khẩu ngô đã giảm so với tháng 5 sau hai tháng tăng liên tiếp, giảm 37,7% về lượng và giảm 38,2% về trị giá, tương ứng với 544,4 nghìn tấn, trị giá 105,9 triệu USD.
Việt Nam nhập khẩu ngô chủ yếu từ thị trường Achentina, chiếm 51,2% tổng lượng ngô nhập khẩu, đạt 1,8 triệu tấn, trị giá 361,7 triệu USD, tăng 49,96% về lượng và tăng 56,18% về trị giá so với cùng kỳ. Thị trường cung cấp chủ lực đứng thứ hai là Braxin, tuy nhiên tốc độ nhập khẩu ngô từ thị trường này suy giảm cả về lượng và trị giá, giảm lần lượt 72,41% và giảm 71,68%, tương ứng với 553,5 nghìn tấn, kim ngạch 110,1 triệu USD.
Đặc biệt, nhập khẩu ngô từ thị trường Thái Lan trong 6 tháng đầu năm nay tăng mạnh đột biến cả về lượng và trị giá, tăng gấp hơn 14,9 lần về lượng và 3,5 lần về trị giá (tức tăng 1398,18% về lượng và 255,89% về trị giá) tuy chỉ đạt 151,4 nghìn tấn, trị giá 46 triệu USD.
Cuối cùng là thị trường Lào, đạt 1,6 nghìn tấn, trị giá 328 nghìn USD, tăng 197,54% về lượng và tăng 187,31% về trị giá so với cùng kỳ – đây cũng là thị trường có tốc độ tăng trưởng mạnh chỉ đứng thứ hai sau thị trường Thái Lan.
Thống kê sơ bộ TCHQ thị trường nhập khẩu ngô 6 tháng đầu năm 2017
Thị trường |
6 tháng 2017
|
So sánh cùng kỳ 2016(%) |
||
Lượng (Tấn) |
Trị giá (USD) |
Lượng |
Trị giá |
|
Tổng |
3.639.807 |
731.175.970 |
9,0 |
12,1 |
Achentina |
1.865.890 |
361.721.908 |
49,96 |
56,18 |
Braxin |
553.513 |
110.158.176 |
-72,41 |
-71,68 |
Thái Lan |
151.436 |
46.025.738 |
1.398,18 |
255,89 |
Lào |
1.690 |
328.000 |
197,54 |
187,31 |
Trước lượng ngô nhập khẩu về nhiều, để định hướng cho cây ngô nội cạnh tranh được với ngô nhập khẩu, theo Cục Trồng trọt, dự kiến đế năm 2020, cả nước gieo trồng 1,16- 1,26 triệu ha ngô, phân bổ ở các vùng như đồng bằng Sông Hồng, trung du miền núi phía Bắc, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. Để thực hiện mục tiêu này, Bộ NNPTNT đã đề nghị về công tác quy hoạch: Trên cơ sở quy hoạch sản xuất ngô toàn quốc, các tỉnh/thành phố rà soát quy hoạch sản xuất ngô trên địa bàn trong quá trình điều chỉnh các phương án quy hoạch chuyên ngành có liên quan. Phương án quy hoạch cần gắn chặt sản xuất với thu mua, sơ chế, chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm ngô.
Về giống: Chọn tạo những giống lai năng suất, chất lượng cao, kháng sâu; những giống lai chịu lạnh, hạn, úng, phèn…; những giống có hàm lượng Protein cao, sinh khối lớn phục vụ sản xuất thức ăn chăn nuôi; những giống ngô thực phẩm (ngô đường, ngô nếp…) nhằm nâng cao chuỗi giá trị gia tăng trong sản xuất.
Đối với tổ chức sản xuất: khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi liên kết với nông dân/HTX sản xuất, thu mua ngô tươi tại các vùng sản xuất tập trung để đấy đạt độ ẩm tiêu chuẩn, nâng cao chất lượng sản phẩm.Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp/tổ chức/HTX/cá nhân đầu tư hệ thống sấy ngô cho nông dân tại các vùng sản xuất tập trung.
Riêng về thị trường đầu ra cho sản phẩm, theo lãnh đạo Cục Trồng trọt, hiện nay sản xuất ngô trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 40-45% nhu cầu ngô hạt phục vụ chế biến thức ăn chăn nuôi trong nước. Giai đoạn từ nay đến năm 2030, sản xuất ngô trong nước tiếp tục hướng vào thị trường nội địa. Vấn đề cần đặt ra đối với sản xuất ngô trong thời gian tới là đẩy mạnh thực hiện các giải pháp hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh với ngô nhập khẩu.
Chính vì thế, Cục Trồng trọt đề xuất, cần: Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Quyết định số 915 ngày 27/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Chính sách hỗ trợ để chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô tại vùng trung du miền núi phía Bắc, BẮc Trung Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.