Cảng biển, logistics Việt trong thế trận kết nối, cạnh tranh thế giới
Trong 5 năm tới, hệ thống cảng biển và logistics sẽ phải đầu tư phát triển như thế nào để đáp ứng mục tiêu đưa Việt Nam thành quốc gia mạnh về biển?
Chiến lược biển Việt Nam xác định mục tiêu đến năm 2020 sẽ phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là phát triển hệ thống cảng biển, logistics cạnh tranh sòng phẳng với các nước trong khu vực và thế giới. Báo Giao thông trao đổi với Cục trưởng Cục Hàng hải VN Nguyễn Xuân Sang về vấn đề này.
Phát triển cảng biển đang đi đúng hướng
Ông đánh giá thế nào về vai trò của hệ thống cảng biển và dịch vụ logistics với nền kinh tế. So với tiềm năng, hiện các cảng biển Việt Nam đã phát triển tương xứng?
Cảng biển là một trong năm kết cấu hạ tầng giao thông, là cửa ngõ của hàng hóa xuất nhập khẩu và là đầu mối chuyển đổi các phương thức vận tải từ vận tải biển sang vận tải đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa. Do đó, hệ thống cảng biển và các dịch vụ logistics gắn với khai thác cảng biển luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Hiện nay, Việt Nam có 44 cảng biển và 263 bến cảng với tổng chiều dài khoảng 89km. Trong đó, cảng biển nước sâu, cảng cửa ngõ kết hợp với bến cảng trung chuyển quốc tế có thể tiếp nhận tàu 100 – 200 nghìn tấn đã được đầu tư xây dựng tại miền Bắc, miền Nam và đang tiếp tục nghiên cứu đầu tư tại miền Trung. Với năng lực thông qua khoảng 550 – 570 triệu tấn/năm, hàng năm hệ thống cảng biển Việt Nam thông qua đến 90% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, góp phần tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.
Có ý kiến cho rằng, dù có hàng trăm cảng, bến cảng, cơ cấu cảng biển ở Việt Nam còn nhiều bất cập, thừa cảng nhỏ, thiếu cảng lớn. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào, có phải việc đầu tư chưa đúng trọng tâm, trọng điểm?
Cục Hàng hải VN đang chỉ đạo triển khai các thủ tục tàu biển qua mạng điện tử, đồng thời xây dựng phần mềm khai báo thống kê điện tử nhằm giảm thiểu các thủ tục hành chính, hỗ trợ các hoạt động hàng hải nâng cao hiệu quả khai thác cảng biển.
Ông Nguyễn Xuân Sang
Theo tôi, điều đó chỉ đúng một phần. Trước năm 2007, hệ thống cảng biển của chúng ta vẫn bị đánh giá yếu kém về chất lượng, lạc hậu về kỹ thuật công nghệ, thiếu cầu bến cho tàu trọng tải lớn, đặc biệt là các bến cho tàu container vận hành trên tuyến biển xa. Thời điểm đó, các bến cảng cho tàu trọng tải trên 50 nghìn tấn chỉ chiếm khoảng 1,4%.
Tuy nhiên, từ sau năm 2007 đến nay, hệ thống cảng biển của Việt Nam đã có bước phát triển đột phá. Năng lực của các cảng tổng hợp, đầu mối khu vực đã được đầu tư mới, cải tạo nâng cấp cho phép tiếp nhận tàu trọng tải 30 – 200 nghìn tấn. Riêng việc cảng Bà Rịa -Vũng Tàu tiếp nhận thành công tàu container lớn nhất thế giới với trọng tải 18.300 TEU (194.000DWT) đã khẳng định năng lực cảng biển Việt Nam đang bắt kịp với xu thế phát triển của đội tàu biển thế giới.
Bên cạnh đó, những dự án đầu tư phát triển hạ tầng công cộng, các dự án mang tính dẫn dắt đang thu hút mạnh mẽ lĩnh vực tư nhân tham gia đầu tư, nhiều nhà khai thác cảng, các hãng tàu lớn của thế giới đã đến tham gia khai thác cảng biển tại Quảng Ninh, Hải Phòng, TP HCM, Bà Rịa – Vũng Tàu. Điều đó cho thấy, định hướng phát triển cảng biển ở nước ta hiện nay đang đi đúng hướng, đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Tăng kết nối logistics bằng cảng cửa ngõ và cảng cạn
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Chỉ thị yêu cầu triển khai các giải pháp làm giảm chi phí logistics, kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông. Vậy lĩnh vực hàng hải nói chung, cảng biển nói riêng sẽ triển khai như thế nào, thưa ông?
Chi phí logistics của một quốc gia phụ thuộc nhiều vào những yếu tố phần cứng là hạ tầng logistics và yếu tố phần mềm là các cơ chế, chính sách. Để giảm chi phí logistics, chúng ta cần cải thiện cả hai yếu tố trên.
Để triển khai thực hiện các nhóm giải pháp nhằm kéo giảm chi phí dịch vụ logistics như Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, ngành Hàng hải sẽ rà soát, hoàn thiện các quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển theo hướng tiến mạnh ra biển, giảm thiểu những hạn chế về luồng lạch và tiếp cận gần hơn với các tuyến hải trình quốc tế trên biển Đông. Gắn việc đầu tư xây dựng cảng biển với xây dựng mô hình quản lý cảng tiên tiến để tối ưu hóa việc đầu tư khai thác cảng.
Cảng biển được xác định là đầu mối trung tâm để triển khai giải pháp kết nối các phương thức vận tải. Quy hoạch phát triển các ICD để hỗ trợ khai thác cảng biển, góp phần cơ cấu lại thị phần vận tải của các phương thức, tạo thuận lợi cho vận tải hàng hóa từ cảng biển đến các trung tâm sản xuất, phân phối, tiêu thụ được xuyên suốt.
Trong 5 năm tới, hệ thống cảng biển và logistics sẽ phải đầu tư phát triển như thế nào để đáp ứng được kỳ vọng mà nghị quyết về chiến lược biển Hội nghị T.Ư 4 đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển?
Định hướng của ngành Hàng hải là tiếp tục triển khai quyết liệt chiến lược biển theo từng khu vực.
Cụ thể, tại khu vực phía Bắc, sẽ tập trung hoàn thiện kết cấu hạ tầng bến cảng Lạch Huyện, làm cơ sở thu hút đầu tư các bến cảng tiếp theo; Phối hợp với Cục Đường sắt VN nghiên cứu kết nối tuyến đường sắt Lạch Huyện – Lào Cai – Côn Minh (Trung Quốc) để thu hút hàng hóa trung chuyển. Tập trung đầu tư một số cảng cạn theo quy hoạch đã được Bộ GTVT phê duyệt. Đặc biệt, các cảng cạn gắn liền với các tuyến đường thủy nội địa, đường sắt tại các khu vực: Đông Nam Hà Nội, Bắc Ninh, Lào Cai để hỗ trợ khai thác cảng biển Quảng Ninh, Hải Phòng.
Tại khu vực miền Trung, chúng tôi sẽ nghiên cứu xây dựng cảng cửa ngõ quốc tế khu vực tại Liên Chiểu (Đà Nẵng). Đồng thời, nghiên cứu các giải pháp kết nối hiệu quả theo hành lang kinh tế Đông – Tây với cảng biển Đà Nẵng nhằm thu hút hàng hóa khu vực Nam Lào, Đông – Bắc Thái Lan.
Ở khu vực miền Nam, các hạ tầng hỗ trợ khai thác cảng biển Bà Rịa – Vũng Tàu, TP HCM bao gồm trung tâm logistics Cái Mép Hạ, các cảng cạn tại Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh sẽ được chú trọng đầu tư. Đẩy mạnh việc đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông kết nối với cảng biển Vũng Tàu, trong đó có đường cao tốc Bến Lức – Long Thành; đường liên cảng, cầu Phước An và tuyến luồng hàng hải Vũng Tàu – Thị Vải để đáp ứng nhu cầu tiếp nhận tàu container trọng tải 18.000TEU.
Cảng biển trở thành cửa ngõ của Việt Nam
Khi đó, bức tranh về cảng biển và logistics khác gì so với hiện nay? Việt Nam có bao nhiêu cảng, cụm cảng biển nước sâu có thể cạnh tranh được với khu vực và thế giới, thưa ông?
Dựa trên quy hoạch phát triển ngành Hàng hải, thời gian tới, 3 cảng cửa ngõ chính của quốc gia sẽ được hình thành, bao gồm: Cảng quốc tế Hải Phòng gắn liền với trục phát triển Hải Phòng – Hà Nội – Lào Cai – Côn Minh (Trung Quốc); Cảng Quốc tế Đà Nẵng gắn với trục phát triển Đà Nẵng – Huế – Quảng Trị – Savanakhet (Lào); Cảng cửa ngõ quốc tế Vũng Tàu gắn với trục Bà Rịa – Vũng Tàu – Đồng Nai – TP HCM – Bình Dương – Tây Ninh – Phnom Penh (Campuchia). Khi hạ tầng cảng biển, hạ tầng giao thông kết nối và các dịch vụ hỗ trợ được phát triển đồng bộ, các cảng biển trên sẽ trở thành những cửa ngõ chính, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và vị thế của nền kinh tế Việt Nam.
Để có thể đạt được mục tiêu trên, nhu cầu vốn như thế nào, dự kiến từ những nguồn nào, thưa ông?
Theo dự báo tại quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam, đến năm 2020, Việt Nam có nhu cầu thông qua hàng hóa bằng đường biển khoảng 640 triệu tấn và khoảng 1,1 tỷ tấn đến năm 2030.
Trên cơ sở đó, nhu cầu vốn giai đoạn 2016 – 2020 để phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam ước tính khoảng 80 – 100 nghìn tỷ đồng. Trong đó, kết cấu hạ tầng công cộng cảng biển dự kiến chiếm khoảng 30 – 40% còn lại là nguồn vốn từ lĩnh vực tư nhân, bao gồm cả vốn trong nước và nước ngoài.
Cảm ơn ông!
Nguồn : Nam Khánh – Báo giao thông